Khoa bảng Việt Nam là chế độ khoa cử thời quân chủ tại Việt Nam. Ở thời thượng cổ, sử nước Việt không chép rõ về trí thức sinh hoạt. Theo Đào Duy Anh, đến thời Bắc thuộc thì nước Việt mới bắt đầu có Hán học, viên Thái thú Sĩ Nhiếp đã dạy dân Việt thi thư. Đến thời nhà Ngô, nhà Đinh, nhà Tiền Lê, do nước mới dựng, các triều đại chưa có điều kiện để tổ chức nền giáo dục.
Cho đến triều nhà Lý, nhà Trần, 3 tôn giáo là Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo đều được coi trọng. Năm 1075, Vua Lý Nhân Tông mở khoa thi đầu tiên trong lịch sử Việt Nam nhằm chọn nhân tài cho đất nước. Khi đó nhà vua xuống chiếu thi tuyển Minh kinh bác học và thi nho học tam trường. Thủ khoa là Lê Văn Thịnh là người đỗ đầu trong kỳ thi năm đó. Đây là kỳ thi nho học đầu tiên của nước ta nên về sau Lê Văn Thịnh được một số tài liệu ghi là trạng nguyên đầu tiên. Nhưng thực tế, dưới thời nhà Lý, triều đình chưa định ra chế Tam khôi (lấy trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa), nên Lê Văn Thịnh không được phong trạng nguyên.
Đến năm 1246, Nguyễn Quan Quang được xem là vị trạng nguyên đầu tiên bởi vì ông đỗ đầu khoa thi "tiến sĩ". Năm 1247 kỳ thi Tam khôi đầu tiên ở nước ta được tổ chức. Trạng nguyên của kỳ thi này là Nguyễn Hiền trạng nguyên trẻ nhất trong lịch sử khoa cử Việt Nam, khi mới 13 tuổi.
“Hiền tài là nguyên khí quốc gia” – điều này đã được minh chứng như một định đề bất biến trong lịch sử Việt Nam. Đại diện xuất chúng cho những con người tài giỏi của đất nước là các vị Trạng nguyên. Đây cũng là những tấm gương sáng muôn đời để người Việt Nam có quyền tự hào và noi theo.
Trong những cái tên tiêu biểu kể trên không thể không kể đến nữ trạng nguyên duy nhất Việt Nam. Dưới thời phong kiến ở Việt Nam, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã không cho giới nữ được bình đẳng với nam giới, kể cả việc học hành, thi cử. Vậy mà có một người con gái tài sắc, đức độ, trí tuệ trác việt đã vượt qua luật lệ khắt khe đó, đạt tới học vị tiến sĩ.
Nữ Trạng Nguyên duy nhất Việt Nam - Cải trang thành nam để đi thi.
Thời xưa “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” được xem là việc của đàn ông, vì thế mà cảnh đèn sách đi thi của các sĩ tử thì tuyệt chỉ có nam giới, không hề có bóng nữ nhi nào. Chính vì thế nếu có bậc nữ nhi nào thông tỏ Tứ thư Ngũ kinh, có chí dùi mài kinh sử thì chỉ có nước đóng giả nam mới có cơ hội lọt vào trường thi. Lịch sử Việt Nam cũng đã từng có một bậc nhi nữ phải cải trang thành nam để thi tài, kết quả đã vượt qua tất cả các sĩ tử khác, trở thành trạng nguyên đứng đầu khoa thi.
Nguyễn Thị Duệ (1574-1654) còn có tên Ngọc Toàn, hiệu là Diệu Huyền. Trong một gia đình có truyền thống hiếu học tại làng Kiệt Đặc, nay thuộc xã Văn An, Chí Linh, Hải Dương. Quê bà vốn là đất học, trước đó đã có nhiều người đỗ đạt cao, tiếng tăm lừng lẫy như các Trạng nguyên Vũ Dương, Trần Sung Dĩnh thời Hồng Đức, Lê Nại thời Đoan Khánh đầu TK XVI.
Thuở nhỏ bà tỏ ra rất sáng dạ, lên 4 tuổi đã biết viết văn. Lên 10 tuổi đã nổi tiếng là vừa đẹp người lại đẹp nết, khiến nhiều gia đình quyền quý đến xin cưới hỏi nhưng gia đình bà đều không ưng thuận.
Trong dân gian còn lưu truyền câu chuyện rằng, thuở nhỏ khi bị một cậu ấm trong vùng đến chọc ghẹo, bà đã làm hai câu thơ sau khi nghe xong thì cậu ấm ta phải đánh bài chuồn.
“Xá chi vàng đá hỗn hào
Thoảng đem cánh phượng bay cao thạch thành.”
Các tấm gương người cùng quê hương thi cử đỗ đạt cao cũng đã kích thích hứng thú học tập của bà. Song thời đó cuộc nội chiến Trịnh – Mạc ở vào giai đoạn quyết liệt. Cuối năm 1592, Trịnh Tùng đưa quân tiến đánh Hạ Hồng, Nam Sách, Kinh Môn, chính là gần với quê hương của Nguyễn Thị Duệ. Trận này Mạc Mậu Hợp thất thế và bị bắt, vùng đất Hải Dương bị chiến tranh tàn phá, nhiều người chết. Để tìm đường sống, nhiều người dân trong vùng theo chân nhà Mạc chạy lên Cao Bằng, gia đình Nguyễn Thị Duệ cũng nằm trong số đó.
Tại Cao Bằng, bà tìm học người thầy họ Cao. Khi nhà Mạc mở khoa thi năm 1594, dù có phần sa sút so với trước kia nhưng vẫn có nhiều sĩ tử các nơi đăng ký tham gia. Nguyễn Thị Duệ cùng người thầy của mình cũng đăng ký. Nguyễn Thị Duệ năm ấy 20 tuổi, cải trang nam nhi mang tên là Nguyễn Du, vượt vào trường thi. Kết quả bất ngờ là bà đã đứng đầu cuộc thi này, còn thầy của bà đứng thứ hai. Sau cuộc thi, người thầy cảm động nói với bà rằng: “Màu xanh từ màu lam mà ra, ấy vậy mà lại đẹp hơn màu lam”.
Câu chuyện tình yêu giữa nữ tiến sĩ và Mạc đế.
Nguyễn Thị Duệ không chỉ khiến người đời ngưỡng mộ và ca ngợi tài năng và đức độ, tình yêu của bà cùng Mạc đế cũng được xem là một giai thoại đẹp. Trong buổi tiệc mừng tân khoa, vẻ khôi ngô tuấn tú cùng bước đi khoan thai nổi bật của vị tân quan Trạng đã khiến triều đình lẫn Mạc đế không khỏi ngạc nhiên. Thế nhưng, khi vua ban ngự tửu cho Trạng nguyên, ngài để ý thấy Nguyễn Ngọc Du mặt hoa da phấn, thân hình mảnh mai yểu điệu cùng sóng mắt long lanh như phận nữ nhi.
Bà Duệ nữ cải trang thành nam để đi thi.
Sực nhớ đến giấc mộng đêm trước, vua mơ thấy người đỗ tiến sĩ là nữ bèn gặng hỏi và bà Nguyễn Thị Duệ đành phải thú thực. Sau khi biết chuyện, triều đình nhà Mạc hết sức bất ngờ và không khỏi lo lắng vì tân Trạng này có thể bị xử tội khi quân vì dối gạt vua. Thế nhưng, vì cảm mến và quý trọng vị tài nữ như Nguyễn Thị Duệ, Mạc đế lại không trách tội mà còn cho phép bà trở thành Lễ quan trong cung để dạy chữ và lễ nghi cho các thị nữ, phi tần.
Lâu ngày gặp gỡ, tiếp xúc, Mạc đế càng rung động trước nhan sắc rạng rỡ cùng tài hoa của nàng Lễ quan Nguyễn Thị Duệ nên đã đưa bà vào hậu cung và tấn phong bà thành Tinh phi. Có nghĩa là Bà Chúa Sao, ngụ ý khen Bà vừa xinh đẹp vừa sáng láng như một vì sao. Vì thế người đời quen gọi bà là “bà chúa Sao”. Sau khi trở thành phi tần, bà được Mạc đế hết sức sủng ái, yêu thương và được giao cho công việc tiếp tục dạy bảo lễ nghi, quy tắc cho phi tần.
Tạm vào chùa tu sau đó trở thành Lễ Nghi trong Phủ Chúa.
Năm 1625, quân Lê - Trịnh tiến lên Cao Bằng diệt nhà Mạc. Bà vào rừng ẩn náu trong một ngôi chùa nhỏ, bị quân lính bắt được. Bà cầm thanh gươm trên tay khảng khái nói: "Các ngươi bắt được ta thì phải đưa ta đến nộp chúa của các ngươi, nếu vô lễ thì với lưỡi gươm này ta sẽ tự tử".
Tướng Trịnh bấy giờ là Nguyễn Quý Nhạ, vốn cùng quê với bà Duệ, lại quen nhau từ lúc thiếu thời, nên đem lòng quý mến, đã thảo một tờ khải dâng lên chúa Trịnh Tráng tâu trình về việc nữ sĩ Nguyễn Thị Duệ. Chúa Trịnh Tráng đọc tờ khải cũng thấy lạ, bèn truyền đòi đưa Nguyễn Thị Duệ về kinh. Qua hỏi chuyện, chúa nhận thấy bà Duệ có học thức uyên thâm, thấu đạt nhiều sách vở, tư cách đoan trang, bèn phong cho bà giữ chức Cung Trung Giáo Tập, rồi Lễ Nghi Học Sĩ để trông coi việc dạy học trong vương phủ. Người dân tôn sùng gọi bà là Nghi ái Quan.
Nghi Ái Quan Nguyễn Thị Duệ - Hình ảnh của một nữ giáo viên dưới thời phong kiến.
Công trạng để đời.
Bà Duệ không chỉ là nữ tiến sĩ duy nhất của khoa bảng phong kiến Việt Nam mà còn có nhiều đóng góp cho nền giáo dục đương thời. Sinh thời, bà Nguyễn Thị Duệ viết nhiều văn thơ, nhưng trải qua những biến động của lịch sử nên bị thất lạc. Bà rất quan tâm đến việc thi cử, bồi dưỡng nhân tài cho quốc gia. Phần lớn các kỳ thi Đình, thi Hội, tất cả bài vở đều qua tay bà chấm chọn. Bà thường viện dẫn nghĩa lý kinh sử, sự tích cổ kim rành mạch. Các biểu sớ, văn bài thi Đại khoa chúa đều nhờ Bà khảo duyệt lại.
Hiện nay, dân gian vẫn còn lưu truyền giai thoại về Bà. Năm Đức Long thứ 3 vua Lê Thần Tông, Bà làm Giám khảo kỳ thi Tiến sĩ (1631), được tổ chức tại làng Mao Điền, Hải Dương, có rất nhiều sĩ tử dự thi, trong đó có sĩ tử Nguyễn Minh Triết quê tại Hải Dương. Bài thi gồm 12 câu mà trò Triết chỉ làm 4 câu, nhưng 4 câu cực kỳ xuất sắc. Các quan không nỡ đánh trượt, bèn tâu lên vua, vua Lê bèn hỏi ý kiến bà Duệ. Sau khi đọc bài, Bà thấy hay bèn tâu với vua: "Bài văn làm được 4 câu mà hay còn hơn làm hết 12 câu mà không hay, triều đình cần người thực tài chứ không cần kẻ nịnh bợ". Nhà vua cảm phục, bèn chấm cho Nguyễn Minh Triết đỗ Tiến sĩ Khoa Tân Mùi.
Bà được coi là người khởi đầu hình thức đào tạo từ xa của đất nước. Bà soạn ra các bộ đề thi rồi gửi về địa phương để tổ chức thi. Sau khi kết thúc, bài thi sẽ được gửi lên cho Bà chấm, kết quả được gửi trở lại các địa phương. Bà cũng khuyến khích phong trào học tập, giúp đỡ học trò nghèo hiếu học, đề cao các nhân tài giúp nước.
Khi đất nước gặp thiên tai, địch họa, bà xin triều đình phát chẩn cứu đói, cấp nhiều mẫu ruộng tốt, canh tác lấy hoa lợi. Nhân dân rất cảm phục tài năng và đức độ, nên xưng tụng bà là “Nghiêu, Thuấn trong phái nữ, thần tiên ở trên đời”.
Biết được tình hình trong nước và những bất bình trong dân. Bà không chỉ giúp vua kịp thời điều chỉnh chính sách an dân mà còn khôn khôn khéo khuyên họ bớt xa xỉ, trừng trị nghiêm bọn tham quan, cường hào nhằm thu phục lòng tin yêu của dân.
Tình hình đất nước bấy giờ khiến bà trăn trở. Hết cuộc nội chiến Trịnh – Mạc rồi đến Trịnh – Nguyễn khiến đất nước rối ren, người dân Bắc Hà đói khổ. Càng nghĩ càng thêm chán nên Nguyễn Thị Duệ quyết định xin rời khỏi cung để về quê. Vua Lê và chúa Trịnh không khuyên được nên đành để bà về quê. Bà dựng am để có nơi đọc sách và bảo ban các sĩ tử trong làng. Bà mất năm 1654, thọ 80 tuổi.
Tượng thờ bà Nguyễn Thị Duệ.
Bên cạnh bia mộ của bà có một ngôi tháp tên là “Tinh phi cổ pháp” khắc mười chữ Hán: “Lễ sư sinh thông tuệ. Nhất kính chiếu tam vương” nghĩa là người thầy dạy lễ này sinh thời thông tuệ, các vua chúa đều mến phục bà.
Câu chuyện về cuộc đời của nữ tiến sĩ đầu tiên và duy nhất trong triều đại phong kiến Việt Nam khiến nhiều người không khỏi ngưỡng mộ và kính phục. Sinh ra thời chiến loạn cùng với xã hội nặng lễ giáo gia phong, bà Nguyễn Thị Duệ vẫn một mực theo đuổi và hoàn thành lý tưởng của chính mình.